Bối cảnh Trận_Salamis

Trong các năm 499-494 TCN, các thành bang Hy Lạp cổ đại như Athena và Eretria ủng hộ cuộc khởi nghĩa không thành công chống lại Darius I của Ba Tư của người Ionia. Đế quốc Ba Tư lúc đó mới được thành lập, có quân lực rất mạnh, nên chuyện dập tắt cuộc khởi nghĩa này không lấy gì làm khó.[3][4] Hơn nữa Darius I của Ba Tư lại tiến lên ngai vàng bằng bạo lực, nên ông ta càng thiên về dùng sức mạnh để dập tắt những kẻ chống đối lại triều đại của mình.[3] Cuộc khởi nghĩa của người Ionia đã đe dọa tính toàn vẹn để chế rộng lớn của ông ta và Darius thề sẽ trừng phạt những kẻ tham gia (Đặc biệt là những kẻ ở bên ngoài can thiệp vào nội bộ Đế chế).[5][6] Ông cũng thấy luôn đó là một cơ hội để mở rộng đế chế của ông ta tới cái thế giới cứng đầu của các thành bang Hy Lạp cổ.[6] Trước đó, vào năm 492 TCN, tướng Mardonius từng đem quân viễn chinh, đã mở một con đường tiến tới Hy Lạp, tuy nhiên cuộc chinh phạt này chỉ dừng ở việc tái chiếm đóng xứ Thrace và ép xứ Macedonia phải chở thành chư hầu của Ba Tư.[7]

Vào năm 491 TCN, Darius gửi sứ giả đến tất cả các thành bang Hy Lạp, đòi hỏi mọi nơi phải lấy "đất và nước" làm lễ vật cống nạp cho ông ta.[8] Chứng kiến sức mạnh của ông ta năm trước, phần lớn các thành bang Hy Lạp phải làm theo. Tuy nhiên, tại Athena, các sứ giả của Ba Tư đã bị xử tử, còn tại Sparta họ đã bị đá xuống giếng.[8] Điều đó có nghĩa là xứ Sparta đã sẵn sàng cho một cuộc chiến với Ba Tư.[8]

Vào năm 490 TCN, Darius đã gửi một đội quân viễn chinh thăm dò vào Hy Lạp, đội quân này nằm dưới sự chỉ huy của DatisArtaphernes đã tấn công xứ Naxos trước khi họ nhận được các cống nạp thể hiện sự phục tùng từ các đô thành Hy Lạp khác ở xứ Cyclades. Đội quân này sau đó tiến về phía Eretria bao vây và phá hủy thành bang này.[9] Cuối cùng nó tiến về phía Athena, đổ bộ xuống vịnh Marathon, tại đó nó trạm trán với một đội quân lớn của Athena. Ở trận đánh kế tiếp, trận Marathon, Người Athena đã có một chiến thắng quyết định làm cho người Ba Tư phải rút lui về nơi xuất phát ở Tiểu Á.[10]

Bản đồ mô tả thế giới Hy Lạp cổ đại vào thời điểm chiến tranh nổ ra

Darius bắt đầu xây dựng lại một đội quân khổng lồ mới, một đội quân mà ông ta cho là có thể khuất phục nổi Hy Lạp. Tuy nhiên vài năm 486 TCN, xứ Ai Cập nổi dậy chống lại đế chế Ba Tư, điều này làm cho ông ta phải trì hoãn cuộc viễn chinh Hy Lạp.[4] Sau đó, Darius chết khi đang chuẩn bị tiến vào Ai Cập và quyền cai trị đế chế Ba Tư lúc đó rơi vào tay con trai ông là Xerxes I.[11] Xerxes nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy của người Ai Cập và tiếp tục khởi động lại sự chuẩn bị cho cuộc xâm lược Hy Lạp.[12] Kể từ đó cuộc viễn chinh Hy Lạp với đầy đủ quy mô bắt đầu, nó đòi hỏi phải trù tính lâu dài và cần phải cưỡng bức tòng quân.[12] Xerxes quyết định rằng Hellespont (eo biển Dardanelles ngày nay) sẽ là cây cầu cho quân đội của ông ta tiến vào châu Âu và cho đào một chiếc kênh xuyên qua eo đất núi Athos (Ở gần múi đất này, một hạm đội Ba Tư đã từng bị tiêu diệt trong một trận đánh năm 492 TCN) đây là hai kỳ công hiếm thấy của một tham vọng phi thường vượt quá khả năng của quốc gia ở thời đó. Vào khoảng đầu năm 480 TCN sự chuẩn bị đã hoàn thành, đội quân mà hoàng đế Xerxes đã gây dựng từ Sardes bắt đầu hành quân tiến về phía châu Âu, vượt qua Hellespont bằng hai cây cầu phao.[13]

Người Athena cũng đã bắt đầu ráo riết chuẩn bị chiến tranh với người Ba Tư kể từ giữa những năm 482-480 TCN. Dưới sự lãnh đạo của nhà chính trị gia Themistocles, Athena đã đóng một hạm đội tàu Trireme lớn, hạm đội này rất cần thiết cho Athena trong cuộc chiến với Ba Tư.[14] Tuy nhiên Athena cũng không đủ lực để chiến đấu với Ba Tư cả trên bộ lẫn trên biển, điều này đòi hỏi phải có sự tham gia của một Đồng minh Hy Lạp khác. Vào năm 481 TCN, Xerxes gửi sứ giả tới Hy Lạp để đòi cống nạp "đất và nước", nhưng đã bị hai xứ Athena và Sparta lờ đi.[15] Những phe ủng hộ hai xứ này bắt đầu kết hợp lại dưới sự lãnh đạo của Athena và Sparta. Một hội nghị của các thành bang đã được tổ chức tại Corinth vào cuối mùa thu năm 481 TCN[16] và một Liên minh các thang bang Hy Lạp đã được thành lập. Liên minh này có quyền gửi phái viên đòi hỏi sự trợ giúp và đòi hỏi gửi binh lính của các thành viên của nó tới chiến trường. Đây là một điều rất có ý nghĩa với một thế giới Hy Lạp rời rạc, thiếu sự gắn kết, đặc biệt là thậm chí một số xứ đang còn ở tình trạng chiến tranh với nhau.[17]

Ban đầu hội nghị thông qua việc đồng ý đóng quân ở Thung lũng Tempe, một vùng đất hẹp nằm trên biên giới xứ Thessalia, từ đó chặn bước tiến của Xerxes.[18] Tuy nhiên họ đã nhận được lời cảnh báo của Alexandros I của Macedonia, rằng thung lũng này sẽ bị vượt qua khi quân địch đi qua làng Sarantaporo và đội quân đông đảo của Xerxes sẽ đánh úp quân Hy Lạp khi họ đang rút lui.[19] Ngay sau đó họ nhận được tin Xerxes đã vượt qua Hellespont, phương án khác đã được liên minh thông qua. Con đường tiến tới phía nam Hy Lạp (Boeotia, Attica và Peloponnesus) đòi hỏi quân đội của Xerxes phải vượt qua đèo Thermopylae. Dễ dàng có thể chặn đứng nó lại bằng giáo binh Hoplite nặng Hy Lạp bất chấp số lượng đông vô vàn của quân Ba Tư. Hơn nữa để chăn không cho quân Ba Tư vượt qua đèo Thermopylae từ phía biển, thủy quân của Đồng minh và Athena đã khóa chặt mũi đất Artemisium. Chiến lược phòng thủ kép này đã được hội nghị thông qua.[20] Tuy nhiên các đô thành thuộc vùng Peloponnesuss muốn có một kế hoạch rút lui để bảo vệ vùng Isthmus thuộc Corinth, đồng thời đàn bà và trẻ con của Athena sẽ được sơ tán về Troezen thuộc vùng Peloponnesus.[21]

Một nhóm nhỏ quân Hy Lạp sẽ giữ đèo Thermopylae trong ba ngày trước khi bị đánh tạt sườn từ các đường mòn từ vách núi. Phần lớn quân Hy Lạp rút lui trước khi quân Sparta và Thesper phòng thủ núi bị tử thương hết.[22] Trận đánh cùng lúc ở Artemisium đang lâm vào thế bí thì họ nhận tin trận đèo Thermopylae và rút quân.[23] Kể từ đó việc đóng giữ Artemisium là một vấn đề để tranh cãi gay gắt.[24]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Salamis http://issuu.com/demetriosg/docs/salamis http://www.nytimes.com/2006/11/27/arts/27greek.htm... http://www.poetry-archive.com/a/the_battle_of_sala... http://www.loyno.edu/history/journal/1998-9/Pipes.... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per...